Soạn bài rừng xà nu

1707
Soạn bài rừng xà nu
Soạn bài rừng xà nu
5/5 - (1 bình chọn)

Ngữ văn 12 – Soạn bài rừng xà nu Nguyễn Trung Thành

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC GIẢ

– Nguyễn Trung Thành là một trong những cây bút danh khác của nhà văn Nguyên Ngọc. Ông  đã vốn là nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp với tiểu thuyết  rất nổi tiếng “Đất nước đứng lên”, một cuốn tiểu thuyết  đã viết về  một cuộc chiến đấu bất khuất của các dân tộc ở Tây Nguyên.

– Sau này thì ông vẫn tiếp tục viết về miền đất ấy. “Rừng xà nu” là một tác phẩm rất tiêu biểu. Truyện  đã được viết vào mùa hè năm 1965, khi đế quốc Mỹ đã đổ quân ồ ạt vào miền Nam nước ta. Có thể nói Tây Nguyên đã chiếm  lấy một vị trí  rất quan trọng trong sáng tác của nhà văn.

NỘI DUNG CHÍNH TÁC PHẨM

“Rừng xà nu” là  một câu chuyện về cuộc “đồng khởi” của làng Xô man ở Tây Nguyên đã  được nhà văn Nguyên Ngọc mô tả bằng  những hình tượng thiên nhiên và hình tượng  của con người.

Hình tượng cây xà nu – rừng xà nu

Đây là một sáng tạo nghệ thuật  rất độc đáo của nhà văn. Hình tượng  của cây xà nu- rừng xà nu nổi bật, xuyên suốt tác phẩm và vừa mang ý nghĩa thực và vừa mang ý nghĩa tượng trưng.

– Mở đầu là những  hình ảnh cánh rừng xà nu “đến hút tận mắt….chạy đến chân trời”.

– Kết thúc  là tác phẩm cũng bằng hình ảnh “rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời” -> gây ấn tượng nổi bật và đã đọng lại dư âm trong tâm trí người đọc khi truyện đã khép lại.

a. Ý nghĩa thực

Cây xà nu đã được miêu tả  rất cụ thể :

– Có vẻ đẹp và sức sống rất mãnh liệt (Ham ánh nắng mặt trời, thân mọc thẳng và  nhọn như một mũi tên…bạt ngàn khắp núi rừng và nhựa…thơm ngào ngạt).

– Có khả năng chịu đựng được mọi thử thách và không gì tiêu diệt nổi ( một cây ngã gục với bốn năm cây con  đã mọc lên với đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành và ưỡn tấm ngực che chở cho làng…)

– Gắn bó thân thiết với cuộc sống  của người dân Tây Nguyên trong sinh hoạt hàng ngày ( lửa xà nu trong những bếp mỗi nhà với trẻ con mặt lem luốc khói xà nu và  đuốc xà nu đã  theo con người đấu tranh chống giặc…) ; đã thấm vào nếp nghĩ  với cảm xúc “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta” (lời cụ Mết) ; là lá chắn để bảo vệ làng Xô man trước  những đạn pháo giặc.

b. Ý nghĩa tượng trưng

Cây xà nu đã được miêu tả như một nhân vật có linh hồn, và có tinh cách  đươc khắc họa trong sự hòa nhập và  tương ứng với những phẩm chất của dân làng Xô man :

– Cây xà nu và  rừng xà nu đã  bị tàn phá  rất khốc liệt và đã tượng trưng cho nhân dân làng Xô Man bị khủng bố tàn bạo và đã chịu nhiều đau thương uất hận.

– Cây xà nu  rất ham ánh nắng và khí trời đã tượng trưng cho dân Xô Man yêu tự do và  yêu cuộc sống.

– Cây xà nu có khả năng chịu đựng được mọi thử thách và không gì tiêu diệt nổi, tượng trưng cho dân Xô Man có sức chịu đựng rất ghê gớm trước sự khủng bố của kẻ thù.

– Cây xà nu  đã sinh sổi nảy nở rất khỏe, cạnh những cây ngã gục có những cây con mọc lên rất  mạnh mẽ không gì cản nổi và đã  tượng trưng cho hình ảnh dân Xô Man bám đất giữ làng và đã theo cách mạng chống giặc qua nhiều thế hệ …

-> Cây xà nu đã trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man và  của cả người  dân  ở Tây Nguyên. Đó cũng là lý do vì sao tác giả lại đặt tên cho truyện ngắn này là “Rừng xà nu”.

Hình tượng nhân dân làng Xô Man

– Được miêu tả tương ứng với rừng cây xà nu qua nhiều thế hệ và đã thể hiện được sự nối tiếp và trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

a) Cụ Mết

Là thế hệ đi trước và đã tham gia chống giặc từ thời chống Pháp

– Là cây xà nu đại thụ của làng Xô man (được miêu tả qua dáng vẻ với  cách nói, bản lĩnh, tấm lòng yêu thương đối với dân làng và đối với quê hương…)

–> Hình ảnh biểu tượng cho sức mạnh  và tinh thần có tính truyền thống với  cội nguồn của các dân tộc Tây Nguyên.

– Là linh hồn của cuộc chiến đấu và  là gạch nối giữa Đảng và dân làng đến với Cách mạng như là; vững vàng, gan góc trong đấu tranh  và yêu thương chăm sóc thế hệ tương lai ; yêu qêu hương, tự hào về quê hương của mình…)

-> Cụ Mết  rất tiêu biểu cho thế hệ già làng trong cuộc đấu tranh của dân tộc.

b) Nhân vật Tnú

Được tác giả tập trung khắc họa tính cách lẫn với số phận đã mang một ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giải phóng của nhân dân ở Tây Nguyên.

– Là một chú bé gan góc, táo bạo, trung thực và trung thành với Cách mạng (giặc khủng bố dã man vẫn cùng với Mai rất hăng hái vào rừng  để nuôi cán bộ, quyết tâm học tập để làm cán bộ rất gan dạ dũng cảm khi làm giao liên, bị giặc bắt và  bị tra tấn thì  quyết không khai, chỉ tay vào bụng “Cộng sản ở đây…” ). Khi lớn lên thì Tnú đã  trở thành người lãnh đạo của dân làng Xô man bình tĩnh vững vàng chống Mỹ Diệm.

– Yêu thương vợ con dân làng và quê hương (Chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù hành hạ, biết là thất bại nhưng anh vẫn xông ra để cứu. Xa làng Tnú rất là nhớ làng, nhớ những âm thanh và nhịp điệu sinh hoạt của làng ; khi về thì anh  đã nhớ tất cả mọi người…).

– Biết đã vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để dũng cảm chiến đấu và để trả thù cho quê hương và gia đình (Khi xông ra cứu vợ con, anh bị bắt và bị đốt mười đầu ngón tay, Tnú  đã quyết không kêu van với tiếng thét của anh đã  trở thành hiệu lệnh cho những người dân làng giết giặc. Dù đã mất vợ con, dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt những thế mà Tnú vẫn nén đau thương và đa  tham gia vào lực lượng vũ trang để góp phần giải phóng cho  quê hương…).

– Có tinh thần kỷ luật cao: Ba năm đi bộ đội dù rất nhớ làng nhưng được phép cấp trên  thì mới dám về thăm làng. Khi được về thăm làng, dù rất lưu luyến song anh  đã chấp hành đúng qui định và  ở lại một đêm rồi ra đi…

* Tác giả đặc biệt miêu tả với đôi bàn tay của Tnú đã gây rất  ấn tượng sâu sắc và đậm nét, qua đó đã  hiện lên được cả cuộc đời và tính cách  của nhân vật (bàn tay khi còn lành lặn là bàn tay rất  trung thực và tình nghĩa: Cầm phấn học chữ và cầm đá mài giáo, đặt lên bụng khi bị tra tấn và cầm tay  của Mai; với hai bàn tay không  đã xông ra  để cứu  lấy vợ con của mình  . Bàn tay đã bị giặc đốt cụt đi và đã trở thành muời ngọn đuốc trở thành chứng tích tội ác của kẻ thù – Bàn tay còn hai đốt vẫn cầm được súng để bảo vệ cho quê hương…).

=> Tnú là một nhân vật rất độc đáo và giàu chất sử thi, tập trung những tác phẩm chất cao đẹp  rất tiêu biểu cho nhân dân anh hùng của một dân tộc anh hùng.

c. Thế hệ kế tiếp

Mai, Dít và  bé Heng… là các thế hệ  của nhân dân đã tiếp nối trong cuộc chiến đấu và càng về sau càng lớn mạnh. (sự dũng cảm của Mai, sự bình tĩnh và  vững vàng của Dít và sự lạc quan trong sáng của bé Heng).

-> Tạo nên một hệ thống nhân vật  rất tiêu biểu, có tác dụng làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng cách mạng và của nhân dân ở Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ.

GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT

Đặc sắc và rất đậm đà với chất sử thi hùng tráng. Chất sử thi đã toát lên qua đề tài và chủ đề, cốt truyện, nhân vật và của cả những hình ảnh thiên nhiên và các chi tiết nghệ thuật với giọng điệu và ngôn ngữ của tác phẩm:

– Đề tài có ý nghĩa lịch sử : Sự vùng dậy của những người dân làng Xô man chống Mỹ Diệm.

– Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và hoành tráng. Rừng xà nu đã làm nền cho bức tranh về cuộc đấu tranh chống giặc ( Cả rừng …ào ào rung động, lửa cháy khắp rừng).

– Các nhân vật rất  tiêu biểu đã được miêu tả trong bối cảnh trang nghiêm và  hùng vĩ, vừa mang phong cách Tây Nguyên  lại vừa mang những phẩm chất của anh hùng thời đại.

– Kết cấu vòng tròn : Mở đầu và  kết thúc là một hình ảnh của rừng xà nu và  cùng với sự trở về của Tnú sau ba năm xa cách.

– Cách trần thuật : Chuyện  đã kể về một  sự nổi dậy của dân làng và cuộc đời Tnú được kể lại trong một đêm anh về thăm làng, qua lời cụ Mết và bên bếp lửa bập bùng.  Giọng đã  kể  rất trang trọng như truyền cho thế hệ con cháu những trang sử bi thương và anh hùng của cộng đồng. Chuyện đã kể về thời hiện tại được kể bằng  những giọng điệu và ngôn ngữ sử thi.

KẾT LUẬN

Tác phẩm đã khắc họa lên được  những tập thể của  nhân dân anh hùng đã  gắn bó với nhau trong thời đại anh hùng vừa mang  những dấu ấn của thời đại chống Mỹ và  vừa mang với  phong cách của núi rừng  ở Tây Nguyên.

THAM KHẢO THÊM BÀI VIẾT

CHI TIẾT: Tóm tắt nội dung rừng xà nu

CHI TIẾT: Soạn văn bài phân tích tác phẩm vợ nhặt